Cơ chế sinh lý của hiện tượng cương: Là quá trình giãn nở các động mạch nhỏ trong thể hang và thể xốp để tống máu vào các xoang hang của dương vật, khi máu dồn về xoang hang nhiều làm tăng áp lực lên các tĩnh mạch hang làm cho máu ứ lại và không thoát ra được gây nên hiện tượng cương. Sau đạt được khoái cực, các cơ trơn và động mạch của xoang hang bị co lại, sự co lại này giúp tống dần máu ra khỏi xoang hang và dẫn tới hiện tượng xìu. Quá trình cương là sự phối hợp nhịp nhàng của các cơ chế thần kinh nội tiết sinh hóa, tâm lý...
Quá trình này hoạt động một cách bài bản và trơn chu nên bình thường "trên bảo dưới nghe", khi bị trục trặc tức "trên bảo dưới không nghe" sẽ dẫn tới rối loạn cương (RLC).
Và việc dùng thuốc...
Các thuốc chữa rối loạn cương dương đều tác động vào ít nhất một trong những cơ chế trên gồm có:
Nhóm tác động lên cơ chế thần kinh tâm lý: Nhóm này gồm các thuốc đã được sử dụng từ lâu. Đó là các loại thảo dược và đông dược có tác dụng làm cương dương vật qua việc tăng hưng phấn thần kinh, tăng sản xuất hormon và bổ sung các acid amin cho quá trình cương là: nhân sâm, linh chi, đông trùng hạ thảo, dâm dương hoắc, cá ngựa, bìm bìm... Chế phẩm điển hình tham gia vào nhóm này là apomorphine (uprima), chúng kích thích sản xuất dopamin vùng dưới đồi. Người ta cho rằng việc ra tăng dopamin ở vùng này sẽ gia tăng đáp ứng tình dục. Thuốc có chế phẩm viên nén và dạng nhỏ giọt ngậm dưới lưỡi. Dạng này có tác dụng nhanh chỉ sau 5 phút tác dụng kéo dài khoảng một tiếng nhưng qua sử dụng cũng như thử nghiệm trên diện rộng uprima cho thấy hiệu quả trên quá trình cương không cao nên hiện nay cũng ít được dùng.
Nhóm ức chế PDE5: Có thể nói đây là nhóm thuốc ra sau cùng và có tác động tốt nhất, cho tới tận bây giờ thì vẫn chưa có thuốc nào sánh được nhóm thuốc này. Phiên bản đầu tiên được thương mại hóa và đưa ra thị trường là sildenafil với tên biệt dược là viagra ra đời năm 1998, là một cuộc cách mạng trong điều trị bệnh RLC. Chỉ 5 năm sau một loạt phiên bản khác lần lượt được ra đời là vardenafil và tadalfil với tên thương hiệu tương ứng là levitra và cialis. Các dòng sau khắc phục được tác dụng phụ của sildenafil trên tim và mắt vì chúng chỉ tác động chú trọng vào PDE5 mà rất ít tác động tới PDE6 (hiện diện nhiều ở mắt) và PDE3 (hiện diện nhiều ở tim). Hai thuốc ra sau này còn có tác dụng nhanh và kéo dài hơn. Tác dụng phụ của nhóm này là đỏ mặt, đau đầu thoáng qua, ngạt mũi, rối loạn thị giác thường không phân biệt được màu xanh và màu lam, không nên dùng các thuốc này trên người có bệnh mạch vành và những người đang dùng các thuốc giãn mạch vành vì nếu dùng sẽ làm gia tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và làm cho tổn thương trầm trọng hơn.
Nhóm giãn mạch ngoại vi: Bao gồm caverject (alprostadil), prostaglandin E1, phetolamin... Trước khi viagra ra đời các thuốc nhóm này được các bác sĩ niệu khoa dùng khá phổ biến. Chúng có hai dạng chính là dạng đặt niệu đạo và tiêm trực tiếp vào vật hang. Ngoài ra, thuốc này còn được dùng vào việc chẩn đoán nguyên nhân RLC (loại trừ nguyên nhân do yếu tố mạch máu). Nhược điểm của nhóm này, bệnh nhân không tự dùng được mà phải đến nhân viên y tế tiêm hoặc đặt cho, hơn nữa thời gian tác dụng nhanh và mất tác dụng cũng nhanh (caverject tác dụng cương sau 5 phút và hết tác dụng trong vòng một giờ, trong khoảng thời gian một giờ trên bệnh nhân lúc nào cũng cương cứng dù không có kích thích tình dục). Tác dụng phụ dễ bị viêm loét niệu đạo, gây cương đau, xơ hóa vật hang, đặc biệt là cương đau dương vật kéo dài. Đây là một cấp cứu ngoại khoa - tiết niệu, yêu cầu phải xử trí trước 6 tiếng nếu không sẽ bị tổn thương vật hang không hồi phục... Chính vì thế mà hiện nay nhóm thuốc này ít được sử dụng.
Nhóm nội tiết: Bổ sung testosteron trực tiếp và gián tiếp thông qua hormon tuyến yên LH (chế phẩm là pregnyl dùng tiêm bắp có tác dụng tăng sinh testosteron nội sinh). Dòng testosteron bổ sung hiện nay có nhiều loại: Dạng testosterone dùng ngoài da dán vào da bìu, dạng xoa vào da bụng và bẹn (androgel 50mg). Tuy nhiên, tác dụng phụ là dễ bị kích ứng da nhưng ưu điểm của thuốc này là chúng hấp thu vào máu và không đi qua gan do đó không bị chuyển hóa ở gan nên bảo tồn được tác dụng của testosteron. Dạng đường uống gồm nhiều loại: provironum (mesterolon), andriol... thuốc bị chuyển hóa qua gan nên giảm tác dụng đáng kể. Dạng tiêm cũng có nhiều loại testosteron tác dụng nhanh (testosteron propionat, testosteron phenylpropionate...) hay tác dụng kéo dài (nandrolone decanoate, nandrolone phenyl propionate biệt dược durabolin, decadurabolin), hay nhóm hỗn hợp các dòng testosteron như sustanon tiêm bắp sâu có tác dụng trong vòng 3 tuần.
Nhược điểm của việc sử dụng testosteron vào điều trị RLC là làm giảm sự sản sinh tinh trùng nên điều này phải cân nhắc đến việc điều trị cho những người còn muốn có em bé, nguy cơ phì đại tiền liệt tuyến...